“Ba đồng một cái ý tình nhớ tiếc bằng dạ xanh chữ dạ đen. Năm đồng một cái tứ sầu hoài nền sa-tanh chữ nhung”.
It’s the commodification of grief. Every social convention was born out of good intentions. Watching Journey to the west (1986), I was thinking of the first woman who used sheets of paper as burnt offerings to her deceased husband. Perhaps joss paper had been a radical and meaningful idea at the time, but then it became much of a redundant ritual. People did it just because it was said by their ancestors to be a good practice to preserve, whereas it no longer suited the modern times. The same goes for the red envelope in Vietnamese weddings, which has proved that the propriety, or lễ (理), now became no more than a means to capital raising. People have misused social conventions in the name of collective’s wellness to serve their selfish purpose.

Tập quán lâu đời có khi là một cái xác chưa hỏa táng của một cái hồn văn hóa đã không còn. Những người mà từng sống qua một cuộc bể dâu, chứng kiến sự thay đổi, thậm chí đảo lộn của các giá trị sẽ hiểu rõ điều này. Sống ở thời “mạt pháp” của chữ Hán, chữ Nôm, của Nho giáo, của hát cô đầu (Trần Văn Khê phân tích, trong một bài phỏng vấn hoặc trên tạp chí Bách Khoa, hát cô đầu nửa thế kỷ hai mươi chỉ là một sự lụn bại, mai một của hát cô đầu thế kỷ 19, từ hát cửa đình, sang hát cửa quyền, rồi những cô đào hát thành những cô đào rượu, ấy là chỗ suy vi của hát cô đầu), nghe kể về sự thất bại của khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, khởi nghĩa Yên Thế, khởi nghĩa Thái Nguyên, của phong trào Đông Du, của Đông Kinh Nghĩa Thục, chứng kiến sự thất bại của đảng Nguyễn Thái Học, lớn lên trong cái thế hệ mà Thanh Lãng gọi là “thế hệ Liên Hiệp”, khi những ông như Phạm Quỳnh hay Nguyễn Văn Vĩnh lựa chọn chung sống với Pháp lâu dài, tham gia các hội nhóm yêu nước, chỉ làm lễ truy điệu Phan Châu Trinh, biểu tình kêu gọi ân xá cho Phan Bội Châu, biểu tình chống giáo viên Pháp nói xấu học sinh người Việt thì lại bị đuổi học, ghi trong giấy tờ là trong 5 năm không được cơ quan nhà nước nào nhận vào làm (mấy chuyện như này nên đọc cái “chứng tích thời đại đầu thế kỷ 20” Tuấn, chàng trai nước Việt của Nguyễn Vỹ là biết ngay). Thế là quay sang cái thú phiêu lưu, nhưng mà đi còn chưa tới Myanmar thì đã bị bắt về ngồi tù một năm. Ra tù đi làm ở nhà máy đèn, chủ thấy đang đánh máy thì ném nguyên cái máy đánh chữ vào đầu, vì “đấy không phải việc của mày”. Xong được bà mẹ bốc cho bát hụi, lên Hà Nội mở cửa hàng bán sách báo, được hai năm lỗ vốn lại dẫn vợ con về Thanh Hóa mà ăn bám vào bố mẹ. Học hành dang dở, làm công chức không được, buôn bán cũng chẳng xong, giờ đành đâm đầu vào thuốc phiện và hát cô đầu, giết thời giờ bằng mấy câu chuyện liêu trai chí dị, đánh bạn vong niên với mấy ông già sa cơ lỡ vận, như ông Hà Công Nguyệt, ông Tản Đà, thương tiếc Tú Xương, cảm thông với mấy cuộc đời từng có cái hùng tâm tráng chí tề gia trị quốc bình thiên hạ, nhưng vì thời cuộc đành chui vào xó nhà con con. Một người sống trong xã hội như thế thì chỉ biết thốt lên:
“Cái đời thằng này hỏng. Hắn không phải là người kiến thiết xã hội trong những giờ nghiêm trọng cũng như trong những ngày thái bình, sống chật đất nước, chết thừa mồ mả. Đồ chọn nhầm thế kỷ. Ở cái thế giới đã già cỗi này, mày là kẻ sinh sau đẻ muộn…”
(Một chuyến đi, Tân Dân, 1941)
Thậm chí trước cả khi đi học Thành Chung ở Nam Định, năm 22 tuổi, lúc đi chơi thành Cổ Loa, nhìn quang cảnh mà ngậm ngùi trước sự biến thiên vô chừng của sự vật, bể hóa nương dâu, “biết quay về phương nao mà gọi hồn thiên cổ”? Nghĩa là, chính cụ thân sinh cũng đã kể cho Nguyễn Tuân biết bao câu chuyện về thời trước mà nuôi dưỡng trong ông cái thái độ trầm buồn, không đặt nặng bất cứ cái gì, vì cái gì rồi cũng thay đổi mà thôi. “Con người đã trải mấy cuộc đời” ấy vì thế mà lõi đời rất sớm, nhìn ra hết mấy cái lố bịch ở thời buổi Tây Tàu, cũ mới nhố nhăng, cười khẩy vào bất cứ cái gì tỏ ra là nghiêm trọng, là cao đạo, vì cái thiêng nào rồi cũng thành phàm hết.
Nguyễn Tuân rất thích bày trò làm đám ma giả. Mọi sự trên đời, dù là nghiêm trọng nhất, một khi đẩy đến cái chết, thì trở nên chẳng còn gì nghiêm trọng. Một người đã luôn thấy cái chết ở bên trong sự sống thì nhìn “một trẻ con mới sinh chắc gì là điều đáng vui, một người chết chắc gì là điều đáng tiếc”.
Vợ tôi để tay tôi lên bụng.
– Mình để im nhá. Chúng sắp đạp đấy. Mọi khi bụng đâu có bằng ở giữa mà lại nhọn ở hai bên. Có lẽ lần này đẻ sinh đôi mất.
– Thế mới là đại bất hạnh.
– Mình bảo cái gì?
– Không…
Nhưng đắt thì đắt, chẳng nhẽ có người quen vừa thành ra ma, – cuộc sống lại được thêm một chỗ ngồi tốt; cái thế đứng của mọi người lại nới rộng thêm được một chút để cướp phần ánh sáng và không khí bỏ thừa lại kia – chẳng nhẽ người ta lại không ơ hờ hơ mấy tiếng để bịt mắt người cùng sống, nên câu đối và trướng phúng cứ tuôn đến ăm ắp gần như làm tắt thở được cả một cái nhà vừa có người chết.
Vũ Bằng nói Nguyễn Tuân xem đời chỉ là một vở kịch. Ừ thì tại sao không thể xem nó là vở kịch? «Chúng ta là những con người ta của người ta. Chỉ có giấc mơ là của mình.» Nguyễn Tuân ngay từ sớm đã muốn đẩy mọi thứ vào sự chết, để thấy là không có gì phải làm quá lên trong cõi sống.
Rồi từ chỗ cười mỉa cái sự rập khuôn của phân ưu, Nguyễn Tuân lại tiếp tục cười mỉa cái sự viết sách nhiều như là nấm, nhưng chất lượng lại chẳng bao nhiêu. Xong ông lại tiếp tục cười cái thói trọc phú ở đời, khi có nhà giàu nọ đi mua một bức hoành sơn nền gấm khắc nổi bốn chữ «Kế thế công hầu» mà không hiểu nó có nghĩa gì. Thấy thanh bảo kiếm có chữ «Lỗ Hiển Quận Công» thì hóa ra là đồ bị đem cầm, người chủ chỗ cầm đồ lại gọi đó là con dao bảy để chống trộm. Tranh của Mã Chiếm Sơn, của Quan Công thì lại bị đem treo ở cửa lên cầu thang vài nhà danh kỹ xóm Khâm Thiên. Đến đoạn này tôi lại nhớ cái quán bar ngay góc đường Bùi Viện và Đề Thám mà tôi từng làm việc, trên tầng hai, tức cái tầng bọn Tây hay nhảy nhót, bay lắc, lại để một tượng phật ngồi đó, xung quanh đốt nến thơm. Tôi dám cá thể nào bọn nó chả ra đấy đứng làm vài hơi cần sa trong lúc bàn về chuyện chơi gái. Hơn năm trước, cái quán bar dự phần vào cái làn sóng COVID thứ hai chả có tên là Buddha-Bar, nơi tượng phật nằm ngay chỗ ăn chơi thác loạn như bảo chứng cho một cái niết bàn mang tính phản Thích Ca. Thiêng hay phàm cách nhau một nháy mà thôi.

Đấy bao nhiêu chỗ đấy, thấy có giống cái tình cảnh của chiếc lư đồng mắt cua không? Chiếc lư mà đời sống của nó đã tách hẳn với không gian cao nghiêm vốn sinh ra nó để lặn ngụp trong không gian bình khang hỗn tạp. «Cái rất thanh cao ấy đã phải ở giữa một cái rất tục bạo. Nghĩa là, cuộc đời tinh thần của chiếc lư ấy đã lạc cả sứ mệnh, ý nghĩa rồi, chẳng đáng chàng màng nữa rồi.»
Thuốc phiện và ả đào phảng phất hoặc nồng đượm khét lẹt trong văn chương cả một thời, nhưng chẳng bao giờ tê tái thăm thẳm như trong những “dầu lạc” của Nguyễn Tuân, ở chú Trô chủ tiệm hay ông Thông Phu của Chiếc lư đồng mắt cua; quá vãng vàng son tắc tị, gỉ sét, đóng cặn ở những thân phận con người lẽ ra có thể hào hùng cái thế, nơi vực sâu mà ít người thực sự dám thả mình vào cho ám khói từ trong ra ngoài và nhờn nhợt muôn đời thứ phấn hương thập thành đến hồi phôi phai không thể hồi phục.
Bao nhiêu cái thiêng liêng cái cao đẹp của một thời giờ đây chỉ còn là vang và bóng. Một người hiểu rõ điều đó thì chả cười khẩy vào đời?
Nhưng cái thú vị ở con người rất cổ này (Nguyễn Vỹ nói Nguyễn Tuân thích nghiên cứu sách cổ) lại cũng đồng thời đọc rất nhiều Pháp văn. Hôm Như Phong Nguyễn Đình Thạc dụ Nguyễn Tuân vào hội văn hóa cứu quốc bằng cách đưa cho ông đọc cuốn tự truyện của Charles Plisnier, Nguyễn Tuân thậm chí biết ngay là Plisnier là người Đệ Tam sau chuyển sang Đệ Tứ. Ông còn đọc Marcel Proust, Charles Cros, Panaït Istrati, Paul Morand, Oscar Wilde, Dostoievski, Anton Chekhov, Leo Tolstoy, Nikolai Gogol, Stendhal, Balzac, Guy de Maupassant. Ông đọc rất nhiều Pháp văn, và cả văn Nga dịch sang tiếng Pháp. Chọn viết văn xuôi chứ không làm thơ, không biết làm thơ, thậm chí Đoàn Phú Tứ nói ông không thể ngâm thơ. Ông không viết chữ Hán hay chữ Nôm mà viết chữ quốc ngữ. Và cái câu văn chữ quốc ngữ của ông thời kỳ đầu cộng tác với Trung Bắc Tân Văn, theo Vũ Bằng, là rất kỳ quặc. Hay là ông cũng bị ảnh hưởng từ câu văn của Hoàng Tích Chu trên Đông Tây? Tâm hồn luôn hướng về thời xưa, nhưng lại sống trong thời Tây. Con người kì lạ đó vừa rất cũ mà lại vừa rất mới, vừa rất phương Đông mà lại rất phương Tây, như Trương Tửu nói:
Tôi định viết nghiên cứu về Nguyễn Tuân. Tôi là người hiểu ông ấy. Người ta mới viết về ông ấy từ những cái nhỏ nhỏ thôi. Nguyễn Tuân là người rất độc đáo ở chỗ ông là người đào rất sâu vào cái mình viết. Ông không bao giờ đi vào tình cảm, tư tưởng, mà toàn là cảm giác, đi vào cảm giác rất nhỏ mọn trong cuộc đời. Tôi đã có viết một bài tên là Bệnh giang hồ của Nguyễn Tuân, bây giờ không tìm được ở đâu. Đó là về nội dung. Còn về nghệ thuật, đọc Nguyễn Tuân tưởng như câu văn rất cổ, rất cổ, nhưng đọc kĩ thấy Tây lắm, đó là văn Pháp. Cứ đọc Vang bóng một thời sẽ thấy “cổ” lắm, mà thấy ảnh hưởng của Pháp rất nhiều. Lối phô diễn rất tây. Chỉ hạ một câu:
Chao ôi!
Mà mô tả được hết, rất Tây, đào được tận gốc của cảm giác. Rất thâm thúy. Ông đi vào tận gốc rễ của cảm giác. Mỗi một nhà văn có một thế giới của họ. Phải tự tạo được thế giới của mình mới là nhà văn. Phải tìm cái thế giới ấy.

Nguyễn Tuân trong lúc đi Hương Cảng cũng lại nghĩ đến những chuyện xưa và cũ, về cái thú đốt trầm, so tơ nắn phím của người xưa:
Rồi trạnh [sic] tưởng đến quê nhà bây giờ đang mỗi phút một xê gần lại, tôi tưởng nhớ đến thầy tôi, một ông Tú già cũ, trong những đêm xuân mưa phùn nặng hột, thường bắt tôi gây một lư trầm Quảng Nam. Cha tôi vặn trục đàn nguyệt kêu cót két, trong gian nhà gác vắng vẻ ở một tỉnh xép kia phố xá lèo tèo. Và ngâm xong hai câu thơ:
Cứ đốt lò hương cho đến sáng,
Thử xem mưa gió đến bao giờ.
cha tôi bảo tôi: “Đánh đàn, kỵ nhất huyên náo. Và nên kỵ nữa là trời nồm, trời mưa, nếu đánh dây tơ. Dây hay dão và ải. Đốt than ở lư trầm, tức như sấy dây cho nó se lại và khỏi đứt. Đêm mưa gió, muốn lấy nhạc để diễn tâm sự, phải đốt lò hương rồi mới se tơ phiếm.”
Cảnh tượng êm đềm ấy diễn lại rõ rệt trong ký ức. Nó làm ấm áp lại một linh hồn đang cảm thấy sự thui thủi mênh mông. Tôi không muốn nghĩ tới điều gì nữa. Tôi chỉ muốn sống cho trọn canh trường với vang và bóng ngày ký vãng.
(Một chuyến đi, Tân Dân, 1941)
Tự dưng tôi nghĩ, trong cái thế hệ nhà văn 1932 trở đi, ai trong số họ là người có cái kiểu cách, khuynh hướng giống Nguyễn Tuân? Trong khi Nhất Linh và Nhượng Tống đều cùng thời, nhưng Nhất Linh lại theo tân học, Nhượng Tống lại có khuynh hướng cựu học. Bên phía những người ngoài Tự Lực Văn Đoàn, dường như Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Tchya Đái Đức Tuấn thì không hề như vậy. Nguyễn Tuân có gì đó thuộc về phía của Ngô Tất Tố, Dương Quảng Hàm, Đào Trinh Nhất, Phùng Tất Đắc, những nhân vật kiểu cũ mà trước đây làm báo Đông Tây của Hoàng Tích Chu.
Về sau người ta nói Nguyễn Tuân “ngông” phải chăng vì ông cười khẩy mọi sự thiêng liêng, mọi điều nghiêm túc? (Hình như một nhà văn nào đó – bỗng dưng tôi quên tên đó là ai, trong tác phẩm nào, hình như là Hồ Hữu Tường trong 41 năm làm báo -nói rằng tính ông ấy rất dễ buồn cười ở những thời khắc trọng đại). Nhưng nào ai biết một cái quy luật rằng, những người họ đã sống qua một mấy cuộc bể dâu (thời xưa – thời Tây – thời kháng Pháp – thời xây dựng XHCN ở miền Bắc), đã chứng kiến bao nhiêu cái điều thiêng đều thành phàm và bao nhiêu cái phàm lại lên ngôi, họ chẳng sẽ đâm ra cynical, đâm ra cười khẩy hết mọi sự ra vẻ nghiêm trọng ở đời?
Để tôi kể cho mà nghe. Thế này, này. Hàng năm, cứ ngày cát-tó-zuy-ê – có người đùa gọi là ngày cắt tóc phi-dê, tức ngày kỷ niệm Cách Mạng Pháp – là mình được Toà Đại Sứ Pháp trên phố Trần Hưng Đạo gửi cho một cái giấy mời, có lẽ vì rằng mình cũng bi bô dăm ba câu, kiểu c’est la faute de Voltaire! Cho nó ‘’văn hóa’. Và năm nào cũng vậy, mấy anh công an chặn ngài cổng, đưa giấy mời ra thì các anh ấy làm phận sự lắc đầu, cứ phải vẫy đến khi ông Tùy Viên văn hóa ra bắt tay thì công an Ta mới để Tây dắt mình vào…Merci, c’est bien gentil ! Trong sân tòa Đại Sứ, họ bày ê hề, nào là thịt nguội, xúc xích, ba tê, phó-mát đủ loại. Nhưng tuổi mình, ăn không được mấy nên mình cứ sà vào mấy chai vang đỏ, nhấm nháp hết loại này đến loại kia. Cụng ly và nói Vive la révolution – cách mạng muôn năm – thế là mình được lòng cả công chức Tây lẫn công an Ta, cả hai đều vơ hai chữ cách mạng vào cho mình. Năm ngoái, sợ quá chén, đến khi ngà ngà thì mình ngưng, tự nhủ phải giữ thể thống quốc gia nên thôi cụng ly, thôi hô khẩu hiệu, và khi đi về nhà vẫn còn nói được au revoir, Monsieur l’embassadeur, à l’an prochain. Ấy thế mà đi được dăm chục thước trên hè phố, vừa đến ngay trước cửa Sở Công An Thành Phố thì mình xây xẩm mặt mày, bèn ngồi thụp xuống bên hè đường. Thế là một anh công an ra hỏi, mình khai chóng mặt có lẽ vừa mới uống rượu Tây và vừa hô cách mạng muôn năm. Anh ta tưởng mình xỏ xiên, gọi thủ trưởng ra giải quyết, nhưng anh này lại biết mình, liền đưa mình về nhà, cũng gần đấy. Vừa mở cửa, bà nhà mình nói giỗi, say gì mà mặt lại xanh lè tái nhợt thế kia. Mình đáp, rượu đỏ của Tây ngày Cách Mạng Pháp cắt tóc phi-dê, nó thế. Còn rượu Ta trắng tệch trắng toạc, ngày Cách Mạng Ta, uống dẫu đỏ mặt nhưng lại không say được, bà ạ!
Đỗ Mục viết Khiển Hoài nói mười năm ở Dương Châu như giấc mộc, rốt cuộc sau hết chỉ được cái tiếng bạc tình lầu xanh. Nguyễn Tuân cũng đi từ Thanh ra Hà Nội lập nghiệp, cũng rượu chè, cũng hút xách, cũng loanh quanh các nhà hát cô đầu, rồi cuộc đời cố gắng lập thân lập chí ấy cũng chẳng về đâu, chỉ được cái tiếng ăn chơi.
“Mỗi lần dọn lại những ngày cũ của mình, kiểm lại đống kỷ vật xưa xa, tôi cho bớt đi những vật đã trở nên thừa, hoặc hủy đi một vài bó thư đã trở nên nhạt nhẽo quá, đọc lại chỉ thấy bẽ cùng ngượng, – tôi đã phó mặc một ngọn lửa đem những di tích ấy biến thành một lớp tro nguội và nếu thiếu lửa thì tôi đã sé vụn tập thư ấy ném vào một cơn gió, gió lại đưa cái đám giấy rách ấy đi như là gió ngàn già lùa lũ bướm non, lắm lúc trông theo mà thấy tội tội quá chừng. Tôi đã hủy thư từ, đã cho bớt đi nhiều vật khác, nhiều cái kỷ niệm trông xinh ngộ lắm, nhưng đến cái lư đồng mắt cua thì tôi không muốn loại nó đi một chút nào. Nó đã đánh dấu một quãng đời tôi. Nó đã là một cái mốc rõ ràng trên một thôi đường đi ngược về ký vãng. Nó đã là người làm chứng đứng đắn cho một chuỗi ngày cũ.”
Đọc đoạn trên, tôi không hiểu vì sao người ta có thể gọi con người rất tình cảm ấy là ngông nghênh, kiêu bạc.
Ấy thế rồi cái duyên nơi hàng viện đã cho tôi gặp một người. Một người đàn ông. Đã có tuổi và hiện bấy giờ đứng làm chủ một nhà hát. Ấy là ông Thông Phu.
Ngày đó tôi mới có hơn hai chục tuổi đầu. Tuổi ông Thông Phu gần gấp đôi tuổi tôi. Lần đầu tiên tôi gặp ông, không phải ở nơi nhà hát của ông mà lại ở một mâm rượu xoàng tại nhà một người bạn cũng vừa được phóng thích, lúc bấy giờ đang đi làm việc nhà nước.
(…)
Chừng như đã có nhiều người trong cái đám tửu đồ phóng phiếm nơi Thang Quận này nói năng với ông Thông Phu về cái hành tung lưu đãng của tôi thế nào đây nên gặp tôi lần đầu mà ông Thông Phu đã đãi tôi như một người bạn cũ đã cùng có một ít thôi đường chung chạ.
(…)
Tôi mến ông Thông Phu lắm, không phải vì lúc bấy giờ tôi mới bước vào cái đời ăn chơi, định lợi dụng ngay đến những kinh nghiệm tai quái của moojg người chủ nhà hát ả đào. Ông Thông Phu là chủ nhà hát đã mười năm thực đấy, là một người nghiện nặng thực đấy, nhưng ngày lại ngày, ngồi rình tính tình ông, tôi nhận thấy ông có đủ phong thái của một người tài tử. Đánh trống rất xinh, tiếng trống không ra tiếng trống anh kép – , làm thơ làm phú, làm văn tế, rất hay, hay kết giao với đám anh em cơ nhỡ và thỉnh thoảng có kẻ ngu dại nào trong đám sinh tụng phải hậu tạ một số tiền để đền đáp cái lá đơn kiện có kết quả thì ông lại rủ vài anh em đi nhàn tản về vùng quê, tìm về những làng có mở hội nghe chèo, đánh cờ đất ăn giải, trong hành lý có một cỗ khay đèn a phiến nhỏ tiện và một bộ Quất Trung Bí. Rồi ngâm rồi vịnh, cơ nghiệp nhà và việc hồ khẩu ở nhà phó mặc cả cho lũ con em cười với tất cả làng chơi thiên hạ, cho người vợ xóc phách ở nhà hoặc đi hát mảnh.
Tôi nghĩ về những kiếp người phải từ phố về quê ở, trong số họ có khi cũng có mấy cuộc đời hay hay, mà một kẻ trai trẻ ôm trong mình quá nhiều hoài bão, lạc quan tự tin như cái đám kinh doanh đa cấp đọc self-help hẳn chỉ vào đó như một cái cautionary tale, xem đó như một sự thất bại, thoái lui của ý chí làm người. Chỉ có những ai thực sự cũng không màn đến mấy hy vọng ở đời, bằng lòng với cái lửng lơ không cao không thấp, thấy đủ nhiều những lên xuống của phận đời, của vận nước thì mới cảm mến được những cái kiếp người sa cơ lỡ vận đó. Và Nguyễn Tuân là một kiểu như vậy. Trong khi những người khác tìm về những cái đẹp, cái trong trẻo, cái hồ hởi tin tưởng và thành kính mà viết, thì Nguyễn Tuân lại viết về một ông Thông Phu bê bối, lộn xộn, uể oải, luộm thuộm, một kiểu Jasper Palmer trong Children of Men hay là Charles Bukowski. Cuộc đời ông Thông Phu cũng như cái lư đồng mắt cua, có cái gì sai lạc mục đích, dang dở, ngổn ngang, bề bộn, bất đắc chí, như những kẻ mà ông đã dẫn lời:
«Đời là thế, thế là đời
Ai là người biết, biết người là ai
Trăm năm trước đã qua rồi
Trăm năm sau, lại tẻ vui còn chờ
Hãy bàn cái quãng lửng lơ
Sinh ra lơ lửng bây giờ mà hay
Nghìn xưa ai có thế này
Nghìn sau ai biết thế này là nao
Ai hay, ai dở, ai sao?
Nước cờ nước thấp nước cao là gì
Có khi… rồi cũng có khi!»
Trước khi đứng làm chủ mở nhà hát, ông Thông Phu là một người có danh phận lương thiện của một xã hội trưởng giả trung lưu đương thời của chúng ta. Ông cũng là một người viên chức chính ngạch nhà nước. Ở một cái tỉnh nhỏ Trung Kỳ, cách đây hai chục năm, khi mà người ta làm việc ở tòa Sứ, với một cái chức thông ngôn! Nhưng cái ông thông ngôn có chất máu giang hồ tài tử ấy ở trong huyết quản đã là một người thiếu lương tâm nhà nghề đối với phận sự nơi buồng giấy. Đến sở thường là chậm, luôn luôn bỏ sở ra đi trước giờ bãi, cố lầm tiếng trống chầu nha môn ra tiếng trống chầu hàng viện, lấy giấy công văn của sở ra để đánh máy chép bài hát và dùng luôn những tên tùy phái mặc áo lính tòa làm người chạy thư tình riêng cho mình; giữa hai bản dịch đơn kiện ông Thông Phu lại ngừng bút để mấp máy miệng nhẩm những khổ đàn đáy khuôn phép rất du dương, lấy thước kẻ mép cẩn chỉ đồng gõ vào thành bàn giấy cầm nhịp cho điệu đàn mồm. Ông Thông Phu đã đem tất cả những thói tục bừa bãi vào giữa một nơi công đường trang nghiêm, ông ngủ gật trên tập công văn còn lưu cữu lại để lúc choàng thức dậy thì lại mở ngăn kéo bàn giấy ra tìm bữa ăn đã giấu sẵn đó. Bánh, thịt quay, lạp xưởng, rượu, nhồm nhoàm ăn uống như một viên chức Ăng Lê dùng luôn bữa trưa lại sở. Sở đã gần thành ra một tiệm cao lâu mà hầu-sáng, phổ-kê thì là đám long-toong. Cái người công chức giang hồ ngay trong sở mình đã chẳng là một sự giấu diếm che đậy mãi được nữa rồi. Một buổi sớm ấy, quan Công Sứ đã nghiêm nghị như một người tộc trưởng một gia đình nền nếp, gọi ông Thông Phu lên, báo cho ông biết rằng «Chính Phủ Bảo Hộ rất tiếc rẻ không dùng được ông nữa vì hạnh kiểm của ông thiếu nhiều quá. Ông đã treo một tấm gương xấu cho các bạn đồng sự ông». Chẳng ở được sở nhà nước thì ông Thông Phu ở luôn ở dãy nhà hát của mọi người thiên hạ vậy. Ở đây, không ai xoát hỏi căn cước và lý lịch và hạnh kiểm ai cả. Và từ ấy, sở lương nhà nước vợi đi được một xuất ăn hại đái nát thì xóm hát lại thêm được một cái môn bài mới. Ông Thông Phu mở nhà hát, vợ đứng tên.
Nguyễn Tuân không hẳn đã là một ông nhà văn chỉ đi tìm cái đẹp như người ta hay tán tụng, chính ở Chiếc lư đồng mắt cua, Nguyễn Tuân viết về những cứt đái, hôi thối, bốc mùi, tật bệnh, ẩm sũng của những gian phòng, trong cái sự lặc lè thoi thóp của một người chủ nhà hát bán thân bất toại, trong cái tiếng thở nặng nhọc khó khăn của một đào nương đã có tuổi.
Trong cái cảnh tối tăm, u uẩn, tù túng đó, tự nhiên ông Tuân ông ấy trở mình, ông ấy ngồi dậy như cái giật mình của Tolstoy vào giữa đêm vì vỡ lẽ cái sự ngắn ngủi của cuộc đời giữa vũ trụ bao la rộng lớn. Ngồi bó gối mà nhìn những bệ rạc, những hắt hiu của một cảnh sống góa bụa, còm cõi sau một tuổi trẻ phóng túng hình hài, sau khi tiệc rượu đã tàn, ông Tuân nhớ những ngày chăm lo điếu đóm cho ông Thông Phu trong cái buồng bệnh tù ngợp, để rồi sáng ra lại hỏi một câu: «Xuyến là người bên lương hay bên giáo».
Giá còn dì nó ở nhà, những lúc này đối đáp cùng ông, chắc tâm đầu ý hợp lắm. Dì nó đâu cũng con nhà gia thế tử tế như ông…
Con nhà gia thế như tôi? Tôi tự nhiên uống thìa rượu thấy đắng. Ngừng tay đũa, ngồi thần người ra, tôi đã nhìn rất lâu một khoảnh sân nhà hát nước mưa làm loang như tráng mỡ nước. Lòng tôi rầu buồn hơn cả mấy chục năm bó củi mục rầu dãi giữa ngoài trời ấy từ mấy tháng trước, thân que củi đã tua tủa nhô lên những hình nấm không có tên gọi.
Lại lặp lại cái cảm giác như khi đi sang Hương Cảng mà đóng tuồng:
Soi gương, tôi tự nghĩ:
“Ông cố nội tôi, khi ngồi trong Cẩn Tín Viện nhà vua với cái nhân phẩm và nét trì thủ của một ông nghè bút thiếp dưới triều Tự Đức, hẳn không bao giờ nghĩ sau nầy sẽ có một đứa cháu đích tôn sang Hương Cảng để bôi rất nhiều phẩm tươi vào mặt”. Tôi thấy tôi rất ngố trong tấm gương, vội kêu to:
– Mẹ kiếp, thật là vẽ nhọ bôi hề!

Rồi ông Tuân lại nhớ cái đinh ở một cái buồng nọ trong một chuyến đi Vinh. Cái đinh lại một lần nữa là một cái gì vướng víu, nửa vời. Nhiều lúc chỉ chờ cho nó rớt ra, đổ ầm xuống một sàn gác để lồm ngồm bò dậy cất cái đống mũ áo rơi ấy, thế mà nó lại không rớt. Và cứ thế, cái đinh tiếp tục sống cái đời đèo bòng lơ lửng của nó qua hết những mùa mưa ẩm thấp lẫn những mùa nắng gắt. Cái đinh như cái sống gượng gạo, muốn lay mạnh, dứt nó ra mà không được.
Tôi tưởng tượng ra một cái ông đồ gàn, về đến nhà chả làm gì đứng nhìn cái đinh trên tường mấy chục phút. Rồi đang yên đang lành ông lại mượn cái kìm mà nhổ nó ra như bẻ một cái răng hàm của người có tuổi, để rồi mấy ngày sau đó về nhà không còn cái đinh để treo đồ, cứ để luôn mũ trên đầu và đóng luôn quần áo mà ngồi lù lù giữa nhà. Cái thói nhàn cư vi bất thiện ấy, cái thói rảnh rỗi sinh nông nỗi ấy, muốn đẩy đi, muốn xua đi những cái lưng chừng của cuộc đời, muốn cho nó hoặc tất cả hoặc không có gì, hoặc thăng hoa hoặc bể nát cả ra, rốt cuộc những nỗ lực kiểu như vậy cũng đâu có đưa đến một điều gì khác cho cảnh sống của mình? Cái sự dan díu, vướng vít ấy nó giống như định tâm lên tàu đi một chuyến Hạ Long đổi gió, thì lại tiêu hết tiền vé vào bàn đèn thuốc phiện, hay như định đi vào Sài Gòn bị lại dính ngay một cái duyên nợ ở Vinh để rồi nằm ở nhà hát cô đầu mấy tháng trời. Bao nhiêu lần muốn “làm lại cuộc đời” đổ bể trong mấy phút yếu lòng, buông thả như thế, như người ta bao nhiêu lần tự hứa sẽ giảm cân, sẽ tập gym để rồi một mai khá hơn trước nhưng lại cứ chây lười, ù lì rồi đâm chán với cái xác thân bất toàn muôn hồi không khá lên được. «Những đêm giông tố như đêm nay, cái lòng đạo đức chỉ còn như một sợi tóc thôi».
Không chào Phương đi. Bây giờ đổi tên rồi. Không còn là Tỉnh nữa. Anh có đi tìm Tỉnh ở ba phố Cống này hàng tháng cũng chẳng một ai biết mà chỉ cho đâu. Thế nào đi Sài-Goòng đấy à. Cho Tỉnh đi mấy. Có vào Sài-Goòng thì lại được dịp thay đổi tên thêm một lần nữa. Thì lại vứt cái tên Phương này đi.
Tôi để cho cô Phương nói lấy cả một mình, lòng riêng bận bịu với một vài kỷ niệm vụn vặt ngày trước.

Trông thấy Phương lại gần tôi, tôi ngấy rợn. Phương ít ngày gần đây cố làm vui cho tôi, nhưng tội nghiệp! nàng chỉ đem lại cho tôi những cảm giác kinh tởm? Tôi chỉ cho tôi là một người ốm nuốt phải mớ thịt quay và ngửi những mùi sào nấu béo nóng.
Cảnh thừa mứa ấy, nó giống như một người béo phì mà muốn giảm cân nhưng lại cứ chìm mãi vào những ăn và ăn. Một kiểu người trụy lạc đến cùng tận đến chán ngán ra thể nào chẳng đến lúc mà nghĩ rằng, toàn bộ mấy thứ ăn chơi ấy cũng chỉ có thế. Cơ bản vì trong cảnh tạm bợ, lưng chừng, con người ấy vẫn chưa thôi mơ về một sự đổi khác của cuộc đời. Định lui về thôn dã ở ẩn thì lại nhớ những tiếng động của tất cả những cái gì mình định bỏ xa lùi lại về ký vãng.
Tôi nghĩ, tôi nghĩ tất cả những dài dòng của một áng văn phải chăng là nỗ lực gọi tên một cái trạng huống tinh thần chưa được định danh trong từ điển? Nhưng từ điển chỉ là một tập hợp của những cái hình thức rỗng tuếch. Người ta cố dán nhãn một thứ gì chỉ để thấy yên ổn mà không phải nghĩ về nó, không phải cảm thấy gì về nó nữa. Nhưng một cái tóm tắt cuộc đời đâu phải là diễn biến của cuộc sống? Văn chương không là văn chương nếu nó cứ cố gắn rút gọn lại những sự phức tạp.
Đã hay rằng nằm đối diện với anh mà thanh đàm, nó là một cái thú âm thầm ít người tập được đấy, nhưng đêm nay anh phải cho tôi ngồi giữa một cảnh ồn ào chốc chốc điểm vài tiếng cốc bát loảng soảng đổ vở.
(…)
Tôi rùng mình, cố đập vỡ xuống nền gạch có rêu một chiếc bát để được nghe những tiếng động mạnh bạo tàn nhẫn. Nhưng cái bát bị quẳng ấy có vỡ tan ra từng mảnh vụn, – mắt tôi có trông rõ – mà quái lạ, hình như không gây ra được một tiếng loảng soảng nào.
Một người vừa rất ồn ào, bù khú, nhưng lại cũng là một người rất thâm trầm, nho nhã. Một người thèm cái tiếng động đổ vỡ, kịch tính, nhưng lại cũng là người đi rất sâu vào những cái đêm vắng lặng của lòng mình. Cái người ấy như phải sống cho tột bực cảm giác để rồi sau lại thu về một góc mà ghi lại những cái sống đã qua. Như thế nên ông mới cười tủm tỉm hài lòng khi người ta nói gọi ông là cái “thằng Tuân” chứ “ông Tuân” cái nỗi gì, vì trong những phút chơi bời, ông bày ra đủ cái thói hư thân mất nết, chẳng giống với con nhà gia giáo.

«Cái trận gọi là Điện Biên Phủ trên không ấy, loa gọi dân sơ tán. Đi, đi đi, nó bom thế này ở lại thì chết. Mình bảo mình, sống thế này đủ quá rồi, đi là phải bỏ những thói hư tật xấu ở lại, như một rượu, như một chè… và còn cái món thứ ba (giọng hóm) thì thôi, quen nhịn mất rồi (cười), cho nên mình ở lại. Cứ báo động là mình leo lên nóc nhà trên cao, ôm chai rượu, ngất ngưởng ngắm thành phố đang tối om bỗng sáng lòa, đạn phòng không như pháo bông xanh lè, đỏ rực, thi nhau chớp lên nhoang nhoáng, chạy đuổi nhau như chửng giỡn thành những vệt quanh co ngoằn ngoèo định mệnh. Trời Hà Nội lúc ấy đẹp, đẹp vô cùng. Ôi dào, mặc nó, chuyện nó nổ cứ nổ, chuyện mình ngồi ngắm nó cứ ngắm, duyên phận mà đến thì gặp nhau. Ấy thế mà khi nghe cái đài mình kè kè ở bên cạnh báo bom rơi vào Khâm Thiên thì mình nhói lòng buốt ruột, nhắm mắt lại, và mình nghe tiếng hát của cô Diệp, bà Kim hát những bài hát ả đào một thời xa xưa. Lạ thật, mình tự hỏi, sao lại đau những cái đã không còn mà dửng dưng trước bao nhiêu điều đang bị hủy hoại đi. Mất và còn. Những điều đáng mất, những điều đáng còn? Ôi chao, sao mà phức tạp đến vậy. Lúc đó, thèm một quả bom rơi ngay vào đầu để khỏi bắt nó nghĩ thêm những điều rối như tơ vò…»
Tính cái ông Tuân cũng thật lạ, cơm nhà, giường nhà thì lại không phát tiết ra sinh thú, mà lại thích ngồi chung mâm với mấy cặp đôi vợ chồng, thích dự phần vào một cái cảnh gia đình của người khác, từ vợ chồng ông Thông Phu đến vợ chồng Hoàng và Lựu.
Nguyễn Tuân chọn cái bài thơ của Đỗ Mục quá hợp lý, vì suốt mấy năm trời ăn chơi ở các nhà hát của ông cũng lưu dấu lại kỷ niệm mấy cô đào nương, từ cô Phương ở Vinh đến cô Tâm ở Thanh Hóa, rồi lại cô Tuyết cô Mai, cô Xuyến. Nhưng rồi với các cô ấy, ông cũng chỉ như một chuyến đò dọc, qua đường không đỗ lại, phần nào cũng bởi ông đã có dịp chứng kiến cái cảnh tàn tạ của người bạn đã can đảm nhận lấy trách nhiệm với một cái tình qua đường, lấy cô đào nương làm vợ lẽ để rồi cứ chạy đi chạy về đến rạc cả người.
Nguyễn Tuân nghiêm nghị đón nhận chiếc trống nhỏ, sửa lại thế ngồi cho ngay ngắn, đặt trống xuống đúng tầm tay, đưa roi trống lên cao, rồi nhìn tay đàn và ca nương, đúng cách quan viên sành điệu, như vị nhạc trưởng của ban đại hợp tấu, chuẩn bị phát lệnh trên một chiếu hát. Mọi người chờ tiếng trống phát ra. Nhưng Nguyễn Tuân lại đặt nhẹ rồi trống xuống và nói với giọng trầm buồn:
– Này em Đức ơi! Anh biết em từng là ngôi sao ca nương sáng chói của lò hát bà Đốc Sao [bà Đốc Sao là người rất yêu ông Hoàng Tích Chu] ở Hà Nội. Xưa kia thì phải là cỡ tuần phủ tri huyện trở lên tới tống đốc mới được nghe tiếng em ca. Thế rồi cách mạng về thì nhà bà Đốc Sao biến đâu mất tích. Nay được tin em trôi dạt về đây, anh đã phải bịa chuyện xin đi công tác phương này, cốt là để tìm em, để được nghe em hát thêm một lần, cho dù mai sau có chết vì bom đạn thì anh cũng mãn nguyện là đã tận hưởng cuộc đời. Bởi hôm nay đây, cái cánh đồng khô giữa vùng đất núi rừng Tuyên Quang nảy bỗng trở thành một bến Tầm Dương! Và em Đức sẽ là người đưa tiễn anh với anh Thảo đây, đều là những tư mã của thời đại, đang bị thời thế lưu đày về cái đất Giang Châu của Tuyên Quang này… Em hãy ca thật hay lên, để tiễn đưa chúng anh ngày mai lại lên ứ… ư đường! Chỉ tiếc ở đây không có rượu ngon để anh ngâm mấy câu thơ cổ:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!
(Thơ Vương Hàn, Lương Châu Từ, Trung Quốc)
Rồi Nguyễn Tuân cao hứng, đằng hắng, lấy giọng ngâm thật thống thiết tiếp:
Rượu ngon thơm ngát chén ngà
Chén chưa kịp cạn, tỳ bà thúc đi
Sa trường say, cười mà chi
Xưa nay chinh chiến, mấy ai trở về!
(Người dịch khuyết danh)
Cây roi giơ lên phát lệnh bắt đầu bài hát:
– Tom! Tom! Chát!
Nhưng tất cả ngạc nhiên vì ca nương không cất tiếng hát mà lại ôm mặt khóc nức nở! Thảo [Trần Đức Thảo] ngồi đấy cũng long lanh nước mắt. Vì trong lòng cũng cảm thấy một nỗi u buồn thấm thìa khó tả, chẳng rõ vì sao.
(…)
Anh có biết tại sao ca trù nó thấm thía vào tâm hồn mọi người không? Tại vì đây là một lối ca trữ tình. Bởi lời ca toàn là những bài thơ, bài hát nói của một nền vãn chương quý phái đã lâu đời. Cách diễn tả lại càng trữ tình hơn. Vì làn hơi bị ức chế trong lồng ngực để rồi được đẩy ra thành tiếng luyến láy nghẹn ngào, nức nở, để bầy tỏ những tình cảm uất ức khó diễn tả, nên ca mà cứ như nấc nghẹn, muốn than van, nuối tiếc, khóc thương một thời hạnh phúc đã mất… Ai mà có nỗi niềm trong lòng thì mới thưởng thức hết được cảm xúc sâu thẳm của ca trù. Tôi biết anh cũng đang có nhiều nỗi niềm bị ức chế ở trong lòng nên tôi mới mời anh đi hát hôm nay. Có đúng như vậy không nào?
Cái ông cũng khéo, mấy cái Tết như chả có Tết nào là ở nhà. Năm thì đi Hương Cảng. Năm thì ăn Tết ở xóm cô đầu. Có bao giờ ở nhà mà ăn Tết với cha mẹ vợ con.
Trước cái biến cố lớn xảy đến giữa nhà hát, cái thái độ sốt sắng của tôi sẽ như thế nào mới là không ghẻ lạnh? Cho nó thỏa đáng được, kể cũng tốn sự suy tính lắm. Đã đành rằng tôi không là thân nhân ông Thông Phu, không có một tí dây dưa máu mủ nào bắt tôi phải gánh một phần trách nhiệm về chỗ đau buồn tốn tiền thuốc men chăm nom đó được, nhưng sự thân thiết từ trước tới giờ đã cấm tôi không được dửng dưng và trốn tránh. Tôi muốn tỏ tình. Nhưng cái ý tình đẹp nào muốn được tỏ rở giữa cuộc đời này mà lại chẳng không cần đến tiền được. Lại buồn, lại nghĩ.
(…)
Đối với ông Thông Phu, chẳng cần phải nói thêm nữa, sự có mặt của ông ở cuộc đời đã đem lại cho tôi nhiều giờ phút thú vị. Tôi đã nhận thấy ông là hay hay. Nhưng lúc này, nếu ông có tắt nghỉ đi, thì tôi cũng không thấy gì là thiệt thòi, là thương xót lắm. Có những cuộc mất mát không đủ gây được nhớ tiếc và bắt mình phải vắng ngắt hẳn đi trong một thời hạn hoặc trống trải qua suốt một đời người. Nếu cái sống của ông đã có nhiều buổi giúp vui cho tôi thì, – trái lại với lối suy luận về tính tình, – cái chết của ông Thông Phu vẫn không làm gì cho tôi khác được hơn là bình thản, mặc dầu chúng tôi phải nhận nhau là tri kỷ. Những điều rắc rối như thế này, tự tôi tôi cũng không biết giảng ra thế nào. Tôi chỉ nhớ rằng gặp những trường họp hỗn tạp như vậy, người ta hay nhắc đến những chữ: những sự phiền toái của tình cảm.
Rồi tôi đâm ra ngờ cái cử chỉ vừa rồi của tôi mà nhiều người đứng ngay sau tôi, đã gọi là tốt. Lúc đi tìm thầy thuốc cho ông Thông Phu, có lẽ tôi đã chỉ làm việc đó cho nó tắc trách đi thôi, chứ sự thực ở trong người tôi, phút ấy, nếu tôi muốn thành thực ngay với tôi đã, thì tôi phải nhận ngay rằng cử chỉ của tôi thiếu hẳn tính cách thiêng liêng của đau xót, của thiết tha. Và tôi đã làm quảng cáo cho tôi bằng một việc làm giả dối xảo quyệt rẻ tiền. Về cái điểm này, tôi muốn được ở gần những người trí giả để cùng chất chính, tôi muốn được những bậc chuyên môn làm việc từ thiện chỉ giáo hộ cho.
Người ta cứ nghĩ rằng theo lẽ thường thì trong mọi cái quan hệ thân mật, lúc có mất mát phải khóc. Nhưng đó là bad faith, vì đâu phải người nào cũng như người nào. Người ta cứ nghĩ là trông nom một người bại liệt, ăn ngủ đái ỉa một chỗ là một cái bổn phận không được ca thán, nhưng ai chẳng biết cái tình nào mà chẳng dùng hết sau mấy năm trời như thế. Ông Tuân lại nói thẳng về mấy cái cảm giác đó. Ta không trách ông tệ bạc, mà trước hết phải khen ông thành thật, thành thật với cảm xúc, tình cảm của mình.
Nhưng điều xét nhận ấy cũng chưa làm cho tôi bực bằng cái lúc tôi vụt nhớ ra rằng ở nhà tôi, chưa bao giờ tôi đi tìm thầy tìm thuốc cho một ai cả. Ở nhà tôi, nào có phải thiếu người ốm đau. Ông tôi xuyễn hen kinh niên, vợ tôi hậy sản. Đứa con gái nhỏ tôi mắc chứng mạch ươn. Gọi là thân trong đời mình thì ba người yêu nhất đó phải gọi là thân chứ còn ai vào đấy mà tranh dành được phần nữa. Vậy mà tôi đã chẳng chạy thuốc tìm thầy cho bố, cho con, cho vợ bao giờ. Phỏng thử có kẻ đem cái việc đi tìm đón bác sĩ chữa cho ông Thông Phu mà kể lại với nhà tôi thì không rõ vợ tôi sẽ hiểu tôi ra thế nào và coi tôi là một cái giống gì đây.
Thế là đối riêng với nhà, tôi đã bạc rồi, mà còn về chỗ đối với thiên hạ, tôi cảm thấy tôi cũng chẳng hậu hơn được chút nào. Giá tôi đã tâm thành khi đón đốc-tờ cho ông Thông Phu thì trong cách xử thế của người con trai, tôi còn viện ra được cái câu «hậu ư thiên hạ bạc ư gia» để mà tự an ủi mình.
Xem tiểu sử nhà văn Nguyễn Tuân ở đây: Nguyễn Tuân: A Biography Part I (1910 – 1940)
5 Comments