Trích từ cuốn Phê-bình Văn-học Thế hệ 1932, tập 2, của giáo sư – linh mục Thanh Lãng
do Phong Trào Văn Hóa xuất bản, trang 252-260.
Phan Khôi là khuôn mặt đẹp đẽ nhất của thời đại ta, một tổng hợp kỳ diệu được hình thành do những gì tinh túy nhất của nền cổ học vô cùng tế nhị Đông Phương và nền học thuật minh bạch khúc triết của Tây Phương.
Con người ấy đã không muốn để cho một biên thùy vô hình hay hữu hình nào giam hãm, tù túng mình bao giờ, là người Quảng Nam, thuộc miền Trung, Phan Khôi đã chọn đất miền Nam này để hoạt động trong một thời gian rất lâu khiến cho nhiều người tưởng ông là người miền Nam. Chẳng hiểu có phải để chữa lại cái điều ngộ nhận đó hay sao mà sau này ta thấy Phan Khôi bỏ miền Nam ra hoạt động ở ngoài Bắc tranh đấu sát cánh bên anh em văn nghệ sĩ miền Bắc để rồi chết trong đất Bắc khiến người thời nay lại tưởng Phan Khôi là người Bắc. Hình như Phan Khôi không muốn người ta xếp ông vào một biên thùy nào, là Trung ông không chịu, là Nam ông không ưng, là Bắc ông cũng chẳng thích: có lẽ ông chỉ muốn người ta gọi ông là người Việt Nam, ông muốn xóa bỏ cái biên thùy địa phương chật hẹp.
Cũng chính trong tinh thần ấy, ông không muốn chấp nhận cái tiếng nói với cái kiểu đọc theo giọng miền Trung, ông cũng chẳng bằng lòng với lối viết rất sai chính tả của miền Nam mà ông không ưa cái lối đọc rất cẩu thả của miền Bắc cho nên ông hô hào người ta thống nhất cách đọc và viết chữ quốc ngữ cho đúng.
Ông yêu Đông Phương nhưng ông cũng không thể chịu giam hãm trong cái ao tù Đông Phương, ông đi tìm Tây Phương nhưng ông cũng chẳng chịu để cho Tây Phương nhổ hết nơi ông những gốc rễ cổ kính đã do Đông Phương ăn sâu vào tâm hồn ông.
Cái cuộc đời lạ lùng ấy, cái tổng hợp kỳ diệu ấy, ông không muốn nhờ ai nặn ra nó mà ông muốn chính ông mò mẫm, nhiều khi rất gian truân, để tự làm lấy cuộc đời mình.
Muốn hiểu một phần nào cái con người kỳ diệu ấy, Phan Khôi, có lẽ không gì hay bằng đọc một bài ký tên Phan thị Nga, không hiểu có phải là trong hàng con cháu gì của Phan Khôi viết về sự tự học của nhà văn khả kính này. Bài này đăng trên Hà Nội Báo số 10 ra ngày 11 tháng 3 năm 1936. Phan thị Nga đã viết về Phan Khôi thế này:
“Ông Phan Khôi học chữ tây và làm quen với cô luận lý.
Các bạn học chữ Tây bây giờ có thầy, có chương trình rõ ràng để học, mau hiểu, mà không thể lường được cái khó, cái khổ của nhà nho học chữ Tây lúc trước. Thế ấy cũng nên biết qua cách học chữ tây của các ông thâm nho hiện nay có tên tuổi dưới đây: Tôi hãy nói về Phan Khôi cho các bạn nghe.
Ông Phan Khôi đậu tú tài hồi 20 tuổi vào năm 1908. Giá ông chuyên học để theo khoa cử thì ông cũng có thể đậu cử nhân tấn sĩ như ai. Nhưng hồi ấy ông đã chán khoa giáp và thích học chữ Tây rồi. Thích học nên không nài lớn tuổi, ông cắp sách đến trường. Ông Phan thành tài học cùng với lớp trẻ con lên 7, lên 10. Học được 3 tháng ông đã thấy rõ sức thầy. Tuy học mau hiểu mặc lòng, ông Phan không có cái may trong sự học chữ Tây. Bận việc nhà ông phải tạm xếp sách. Qua năm sau rồi ông lại tìm tới thầy cũ mà học. Được ít lâu ông ra Bắc quyết tâm vừa học vừa cổ động cho phong trào đổi mới. Ông xuống Nam Định học với ông Nguyễn bá Học. Gặp thầy hay, ông thấy sức mình tấn tới, nhưng rủi mới học được ba tháng ông bị bắt giải về Quảng. Người ta kết án ông. (I) ông Phan thành Tài người Quảng Nam (Bảo an tây) trước làm phán tòa sau về dậy học can vào việc vua Duy Tân, bị sử tử. Ba năm trong lao, ông tìm cách đưa sách vào học như Lecture, Courante, đọc sách chỗ nào ông không hiểu, lại lật tự vị ra tra. Hồi ấy ông nghe nói có thầy Ung Diễn dậy giỏi, ông viết thơ nhờ thầy Diễn ra bài cho. Làm đâu được vài bài bị ông án Trần văn Thống khám xét thâu hết sách tây, ta, bút, giấy và nói một câu nghe rất ý vị: “Các anh còn học làm gì nữa, có ai cho các anh thi nữa mà học”.
Mãn tù ông ra Huế xin vào học trường giòng. Người ta thấy ông lớn quá không biết để ông vào lớp nào, bắt ông thi. Thi xong người ta cho ông học lớp nhì trường giòng hồi ấy là lớp nhất bây giờ, còn lớp nhất hồi ấy là lớp dạy học trò có bằng tiểu học rồi. Ông vô học đứng chót đội sổ trong hai tháng, qua tháng thứ ba đến kỳ hạch ông trở lên đứng đầu. Gặp đại tang, ông thôi học về quê mở lớp dậy chữ nho và quốc ngữ. Hai năm sau có nghị định bỏ thi, ông thôi dậy bảo học trò: “Dậy các anh cho giỏi chữ nho tôi vẫn dậy được, nhưng bây giờ các anh học giỏi ra chẳng làm gì được, hãy học chữ tây đi”.
Thôi dậy, ông lại cắp sách tới trường học với thầy Lê Hiển, ông cũng học với lớp trò của ông. Qua năm sau, ông Nguyễn bá Trác giới thiệu ông vào làm Nam Phong. Ông bước vào nghề báo từ lúc ấy (1918) viết được một năm ông xuống Hải Phòng làm thơ ký cho Bạch Thái Bưởi. Đơn từ bằng chữ Tây ngăn ngắn ông có thể xem được và viết được.
Thôi làm thơ ký ông lại vào Nam viết cho Lục Tỉnh Tân Văn. Làm được ít lâu ông viết một bài kịch liệt quá người ta buộc ông thôi. Ông lại ra Bắc làm cho hội Tin Lành. Ông chuyên dịch kinh thánh chữ nho ra quốc ngữ. Cứ theo nguyên văn bên chữ Hán mà dịch, người mình xem kinh không thể hiểu được, vì lối chấm câu chữ hán thông minh. Ông sóng kinh thánh Tây vói kinh thánh Tầu rồi dịch, chấm câu rất rành mạch. Làm được một năm ông lại thôi vào Nam kiếm việc.
Gặp hồi chưa có việc ông dùng thì giờ rỗi để học, ông ở lại đồng điền của một bạn ở Cà Mau. Đồn điền ấy hẻo lánh quá không có ai nói chuyện cho vui, ông vụt cầm bút viết bức thư thứ nhất, bức thư chữ tây cho ông Dejean. Ông Dejean rất ngạc nhiên và khen bức thư ông viết trôi chảy. Ông Dejean bảo ông có thể dạy ông Phan trong sáu tháng, ông có thể viết được báo chữ Tây. Từ đó về sau ông Phan thường dịch những bài của ông Dejean viết ở các báo Tây.
Lối học của ông Phan hồi ấy là gặp chữ chi khó là hỏi, hỏi rồi tra tự vị lại cho chắc chắn và biên vào sổ con, gặp bài gì thích thì dịch, ông Phan bẩm chất thông minh, tính ưa hiểu biết cũng có chí học, nên biết được chữ Tây cũng là sự thường vậy. Điều đáng khen ông là ông hiểu thấu được một phần rất quan trọng trong tinh thần Tây học, khoa luận lý. Cuộc tình duyên của ông với cô luận lý (logique) đầu đuôi như vậy. Một hôm nhân trong chuyện đạo giáo ông Quỳnh nói với ông: “Cáo người đi giảng đạo thiên chúa thường thường luận lý giỏi ít ai bẻ được, vì họ có học khoa lý đoán. Ông Phan hỏi:
— Lý đoán là gì?
Lý đoán là… lý đoán.
Tính ông Phan Khôi vốn ưa rành mạch rõ ràng trong lối viết. Hồi ấy ông đã thấy rõ lối viết lông bông, trôi nổi của bạn đồng nghiệp có danh hơn, ông không ưa mà chính ông cũng phải viết theo lối ấy. Nhân nghe ông Quỳnh nói cái lợi của khoa luân lý, ông tìm sách Tàu học. Nghiền ngẫm mãi đến lúc hiểu, ông muốn sóng xem có đúng với sách tây không, ông giao thiệp với vài người học cao đẳng Hà Nội lấy luận lý làm đề cho câu chuyện, ông đem những điều ông hiểu ở sách tàu nói cho họ biết. Họ viết cho ông xem những đoạn họ học rồi. Nhờ đó ông rõ hết các danh từ bên Tây và thâm hiểu khoa luận lý.
Từ khi ông hiểu khoa ấy, lối viết của ông đổi hẳn. Bao nhiêu bài ông viết ở Nam Phong được người xem để ý, ông cho là rườm rà đẽo gọt cả. Ông bắt đầu viết được rành mạch sát sóng như lối văn ông hiện giờ từ hồi ông làm cho Đông Pháp Thời Báo ở Nam.
Nhờ luận lý, ông Phan đoạn tuyệt hẳn với tinh thần của nền học khoa cử trước. Ông phản động lại lối viết hào nhoáng bấp binh cũ, sức phản động của ông có phần quá. Bởi nó mà ông đã nổi danh là người hay luận lý, người ta liên tưởng ngay tới Phan Khôi. Liên tưởng ấy bao giờ cũng kèm theo một nụ cười mỉa. Người ta mỉa ông kể cũng quá đáng.
Đối với cái chí, cái tài của ông Phan, người đã gây dựng một lối văn rạch ròi rành mạch, ta nên trọng ông hơn là mỉa ông.
Theo tài liệu của Phan thị Nga thì Phan Khôi đậu tú tài năm 1908 lúc ông 20 tuổi. Nhưng theo tài liệu của Mặt trận bảo vệ tự do văn hóa qua cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc xuất bản tại Saigon năm 1959, thì Phan Khôi đỗ tú tài năm 1905 vào lúc mới có 19 tuổi.
Trong khi chờ đợi có thêm tài liệu mới để kiểm chứng lại, tôi cống hiến cho các bạn đoạn trích tập tài liệu Trăm hoa đua nở trên đất Bắc nói trên. Tập tài liệu này cho chúng ta khá nhiều chi tiết về sinh hoạt văn nghệ của Phan Khôi từ năm 1914 cho đến 1957. Tác giả bài viết về Phan Khôi lắm khi đã chỉ nói phỏng chừng. Cứ theo tài liệu này ta có thể ghi lại đây một ít niên đại quan trọng trong đời Phan Khôi.
— Phan Khôi sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, thân phụ là Phan Trân, tri phủ Điện Khánh, thân mẫu là con gái nhà cách mạng Hoàng Diệu.
— Năm 1905, đỗ Tú Tài. Hồi này vì được gặp Phan bội Châu và Phan chu Trinh, Phan Khôi chán khoa cử nên bỏ không thi lên nữa.
— Năm 1907, Phan Khôi ra Hà nội tham gia Phong trào Đông Kinh nghĩa thục và viết cho Đăng Cổ tùng báo (1907). Khi tạp chí này và cả trường Đông Kinh nghĩa thục bị cấm thì Phan Khôi trốn tránh lúc ở Nam Định, lúc ở Hải Phòng, sau cùng về Quảng Nam hoạt động với Huỳnh thúc Kháng. Nhân đấy bị bắt và giam ở tù Quảng Nam mãi cho đến năm 1914 mới được trả tự do.
— Ra khỏi tù, Phan Khôi ra Hanoi làm báo, viết cho Nam Phong. Sau bất bình với Phạm Quỳnh, Phan Khôi bỏ Hanoi vào Saigon viết cho Lục Tỉnh Tân Văn.
— Năm 1920, Phan Khôi lại ra Hanoi viết cho Thực Nghiệp Dân Báo và Hữu Thanh tạp chí. Cũng trong thời này, Hội Tin Lành thuê Phan Khôi dịch cuốn Kinh Thánh, cuốn Nam âm thi thoại bảo là được ra đời hồi này.
— Năm 1929, tờ Thực Nghiệp dân báo và Hữu Thanh tạp chí bị đình bản, Phan Khôi vài Saigon làm cho tờ Thần Chung và tờ Phụ Nữ Tân Văn, đồng thời gửi bài ra Hanoi cộng tác với tờ Đông Tây.
— Năm 1931, Phan Khôi lại ra Hanoi viết cho Phụ Nữ thời đàm.
— Năm 1936, Phan Khôi vào Huế làm cho tờ Tràng An rồi sau lại xuất bản tờ Sông Hương, Cũng năm này, Phan Khôi tái bản Nam âm thi thoại và đổi thành Chương Dân thi thoại.
— Năm 1939, Phan Khôi vào Saigon dạy chữ nho và viết tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra.
— Sau đấy, Phan Khôi phản kháng cán bộ địa phương định cho phá nhà thờ Hoàng Diệu, Phan Khôi được Hồ chí Minh mời ra Hanoi.
— Ra Hanoi, Phan Khôi không chịu ở với Phan Bôi là em họ, mà lại ở với Khái Hưng. Khi Khái Hưng bị bắt, thì Phan Khôi, vì có con trai là Phan Thao là cán bộ cao cấp nên không bị giết, nhưng bị điệu lên Việt Bắc và sống ở đó suốt 9 năm kháng chiến, chuyên dịch chữ Pháp ra chữ Hán.
— Năm 1954, Phan Khôi ở chiến khu về Hanoi.
— Năm 1956, Phan Khôi viết bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ đăng trong Giai phẩm mùa thu. Cũng trong thời này, Phan Khôi đứng chủ trương tờ Nhân văn.
— Cũng năm 1956, nhân lễ kỷ niệm Lỗ Tấn, Phan Khôi đi phái đoàn sang Bắc Kinh dự lễ.
— Đi Bắc Kinh về, cuộc chống đối Phan Khôi đối với Đảng bùng nổ ra, và sau đấy Phan Khôi bị thanh trừng. (Những chi tiết trên đây mượn trong cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc trang 53-58).
Cuộc đời của Phan Khôi như vậy là một cuộc đời cực kỳ động đạt, thay đổi chỗ ở hầu liên miên, suốt từ Trung ra Bắc rồi vào Nam rồi lại ra Bắc lại vào Trung vào Nam và ra Bắc.
Tất cả cái gì ở Phan Khôi cũng đều khác thường. Chỉ tiếc hiện nay ta chưa đủ tài liệu để viết về con người có một bản ngã kỳ lạ này. Sự nghiệp của ông hầu hết hãy còn nằm rải rác trên mặt báo. Mà có lẽ những gì tinh túy của ông, linh lợi nhất nơi ông, hóm hỉnh nhất ở ông, Phan Khôi nhất trong ông… hình như đều chưa được in thành sách mà hãy còn dấu kín dưới những chồng báo.
Muốn tìm hiểu Phan Khôi phải tìm ông trên các báo:
— Xuất bản ở Hà Nội như: Nam Phong, Thực Nghiệp Dân báo, Phụ nữ Thời đàm, Văn Học tạp chí, Hà Nội Báo, Tao Đàn…
— Xuất bản ở Huế như Tràng An, Sông Hương
— Xuất bản ở Saigon như: Lục tỉnh Tân văn, Phụ nữ Tân văn, Đông Pháp thời báo, Thần Chung, Trung lập báo…
1 Comment